20 thg 6, 2009

Maldini, 20 năm và Serie A: Tình bất tận


Bài viết sau đây được đăng ngày 14/1/2005, chỉ mấy ngày trước dịp kỷ niệm đúng 20 năm ngày anh ra mắt trận đấu ở Serie A trong màu áo Milan. Ngày 20/1/1985, anh chơi trận đầu với Udinese (hòa 1-1). Và đúng năm thứ 20, anh cũng chơi vào tháng 1, cũng trong một trận đấu với Udinese. Tôi đăng lại bài viết này trên blog, cũng như một cách để nhớ về những con người của Milan và các Milanista cùng hoài niệm về một thời đã qua. Mà hình như cách tốt nhất để nghĩ đến Milan bây giờ, là nhớ lại những kỷ niệm. Buồn không nhỉ, khi người ta chỉ còn sống bằng quá khứ?
"Năm 1985, người Italia sẽ nhớ mãi trên thế giới vẫn còn chiến tranh lạnh, Reagan trở thành Tổng thống thứ 40 của nước Mỹ, Navratilova VĐ Wimbledon, Rock Hudson chết vì AIDS; Italia có Juve VĐ cúp C1 với thảm họa Heysel, Berlusconi bắt đầu hối lộ các quan tòa, núi lửa Etna ở Sicilia phun trở lại. Và ở Serie A, Maldini ra sân.

Người thày hỏi: "Cháu thích đá cánh nào?". Cậu học trò mảnh khảnh và lòng khòng trả lời ngay tắp lự: "Thưa ngài, cháu thích cánh phải". Đó là ngày 20/1/1985, giờ nghỉ giải lao của trận Udinese-Milan trên sân Friuli. Người thày chính là HLV huyền thoại Nils Liedholm và người học trò là Paolo Maldini, lúc ấy mới hơn 16 tuổi. Khi Liedholm tung cậu bé vào sân trong trận đấu đầu tiên của Maldini ở Serie A (vào thay tiền đạo Sergio Battistini, hiện đang làm HLV đội trẻ của Fiorentina), cậu còn quên không đeo bảo vệ ống quyển và chưa buộc giây giày!


Mới đó đã 20 năm trôi qua và cậu bé ngày nào đã chuyển sang cánh trái, đã trở thành một huyền thoại của calcio, một trong những cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá Italia và Milan, đội bóng đầu tiên và cũng là duy nhất anh chơi từ ngày đó, được tôn vinh là một biểu tượng của lòng thủy chung. Không có lễ kỷ niệm nào đẹp đẽ hơn cho 20 năm gắn bó cuộc đời cầu thủ với Milan bằng trận đấu với chính đội Udinese đó, đối thủ đầu tiên của anh, trận đấu đầu tiên của đời anh. Số phận dường như quá khéo sắp đặt, cũng đội bóng ấy, cũng vào tháng 1 của 2 thập niên sau, chỉ kém 4 ngày và đã dịch chuyển địa điểm hơn 100 km từ xứ Friuli-Giulia giáp với đất Slovenia để đến Milano, thành phố của anh, tình yêu của anh. Chủ nhật này, sẽ có những bó hoa, những tiếng vỗ tay, những nụ cười cho anh. Và người đội trưởng Milan, đã bước vào cuộc phiêu lưu không dừng kể từ ngày ấy, cũng sẽ nở một nụ cười đáp lại, dịu dàng và bẽn lẽn như cách đây 20 năm...


Trong ngần ấy năm, Maldini và Milan đã trải qua 7 đời HLV (Liedholm, Sacchi, Capello, Tabarez, Zac, C.Maldini, Ancelotti), 2 đời chủ tịch (Farina, Berlusconi), đã trở thành đồng đội của gần 200 cầu thủ, trong đó có những tên tuổi lớn và có những năm tháng tốt đẹp nhất bên họ (Gullit, Van Basten, Desailly, Costacurta và Baresi), đã qua 5 đời HLV ĐT Italia (Vicini, Sacchi, C.Maldini, Zoff và Trap), đã giành 7 Scudetto trong tổng số 21 danh hiệu với CLB (như Costacurta, không cầu thủ nào ở Italia có nhiều chiến tích như họ trong lịch sử). Nhưng Maldini vẫn không thay đổi, như tình yêu lớn anh đã giành cho Milan là vĩnh cửu. Anh đã vào đến 10 trận CK tất cả các giải với Milan và ĐTQG, dù nỗi thất vọng của trận CK năm 1993 (thua O.M), vẫn còn ám ảnh và rồi một đêm tháng 5/2003, anh lại giơ cao chiếc cúp Champions League, cũng trên đất Anh, như 40 năm trước đó, cha anh, Cesare, cũng đeo băng đội trưởng Milan, đã làm được. Đó là điều mà trong lịch sử các cúp châu Âu chưa có tiền lệ.
Những con số khô khan không thể nói lên hết giá trị con người và những đóng góp của anh cho Milan, người đã chứng kiến những thăng trầm, đã sống với biết bao thời khắc vinh quang của một thời đại lịch sử của CLB, người đã bóng đá phòng ngự Italia lên thành một thứ nghệ thuật, một kiểu phòng ngự lịch lãm và thông minh. Anh bảo, anh chỉ ngại mỗi Maradona và đã thua huyền thoại Argentina trong lần đôi đầu. Nhưng bây giờ, trong khi Maradona đã qua cái dốc bên kia cuộc đời từ 10 năm trước. Còn anh vẫn ra sân mỗi chủ nhật, dù gió rét nắng mưa. Một cầu thủ kiểu mẫu cho sự cần cù, khổ luyện và bền bỉ. Sau khi đã phá hết những kỷ lục về số trận với ĐTQG (126 trận, 74 trận mang băng đội trưởng), với Milan ở cúp C1 (136 trận), anh đang chuẩn bị phá kỷ lục một kỷ lục khác của Dino Zoff: 570 trận ở Serie A, đã đứng vững từ 22 năm nay. Ra sân trận gặp Udinese chủ nhật này là trận thứ 553 của anh...


Cuối tháng này, truyền hình RAI sẽ công chiếu "Paolo Maldini, Il film", một bộ phim tài liệu của nhà làm phim Gianmaria Serra nói về cuộc đời anh trong và ngoài sân cỏ, từ những bước đầu tiên chập chững, những kỷ niệm đầu đời cho đến những vinh quang. Nhưng các CĐV Milan và bóng đá Italia thì nghĩ là họ đã xem bộ phim đó rồi, trên các SVĐ Italia suốt 20 năm qua mà không chán, trong mỗi trận đấu của Milan: Một pha bóng nguy hiểm, tiền đạo đối phương có bóng và lao về khung thành Milan. Cả SVĐ nín thở. Maldini phán đoán và bằng một cú tắc dứt khoát và nhẹ nhàng như nai, lấy được bóng trong chân anh ta. Cả SVĐ ồ lên những tiếng trầm trồ..."


P.S: Theo bạn, sau khi Maldini ra đi, ai sẽ thay anh làm biểu tượng của Milan, Gattuso chăng, hay Pirlo?

"Pirlo da Vinci" _ Một bài viết đã lâu nhưng vẫn hay


Trong khi người bạn và cũng là đồng đội ở ĐT Italia, Cannavaro, giành được tất cả trong năm 2006 mà người Ý đã lên đỉnh thế giới, không có một danh hiệu nào cho Pirlo. Trong cái năm 2007 mà Milan mà Kaka giành được tất cả những danh hiệu quốc tế, không một ai đoái hoài đến Pirlo. Tại sao những giải thưởng lớn vẫn không đến với anh?
Người nghệ sĩ có khuôn mặt không mấy cá tính ấy (chắc ngày xưa anh học dốt lắm, nhìn nghệt ra thế kia) không bao giờ đáng lên bìa báo. Anh không có nụ cười điển trai như các đồng đội như Maldini, Inzaghi, Gilardino hay Kaka, không có nét sắc cạnh và đầy tính dữ dằn bặm trợn của Gattuso, không có vẻ láu cá tay chơi như Seedorf. Anh chỉ có một cái nhìn hơi lơ đãng, bất cần và ngái ngủ như một chú mèo mới tỉnh dậy, chỉ có những đường chuyền từng milimet mở toang cánh cửa đến khung thành cho các đồng đội, có những pha nhận trả, điều phối bóng và dâng cao, xuống thấp để giữ cự ly, hoặc hỗ trợ tấn công, hoặc giúp đỡ đồng đội phòng ngự. Những bước chạy với trọng tâm thấp và những cú xoay người giải vây giữa đối phương nhẹ nhàng như nai.


18 tháng qua là khoảng thời gian bùng nổ với anh, với Milan và Azzurra. Với Milan, sự bùng nổ ấy sớm hơn, kể từ khi Ancelotti đưa anh lên phía trên hàng phòng ngự năm 2002. Champions League 2003, Scudetto 2004, một Champions League và một Scudetto hụt 2005. Lippi bắt đầu dùng Pirlo từ đầu cái năm 2005 đầy biến động ấy, và đó chính là mấu chốt quan trọng nhất cho chức VĐTG của người Ý sau 24 năm dài chờ đợi trong hy vọng và khắc khoải. Nước Ý đã sản sinh ra biết bao số 10 xuất sắc, từ Rivera, Antognoni, Mancini, R.Baggio đến Totti. Không một ai trong số họ đưa Italia đến chiến thắng ở những giải đấu lớn. Những đội Azzurra từ sau Espana 1982 đến trước 2006 đều thất bại dù có trong tay những số 10 thuộc loại hay nhất mọi thời đại. Tại sao họ không thể chiến thắng? Bởi họ quá tài năng, quá đẹp trai, quá lãng mạn và mơ mộng, mà cái chất ấy đâu hợp với calcio.

Lippi chỉ làm điều mà Ancelotti đã làm, kéo một số 10 từ phía sau 2 tiền đạo xuống phía dưới, và bộ óc ở phía sau ấy không chỉ giải toả áp lực cho hàng phòng ngự, mà còn là cầu nối cho những đợt tấn công và ghi bàn từ những pha đá phạt kinh điển. Chìa khoá cho chiến thắng của Italia ở World Cup là Pirlo chứ không phải ai khác (cũng chính anh là nhân vật then chốt cho chiến thuật mang tính cách mạng đã đưa Milan đến 2 chức VĐ Champions League trong 4 năm qua). Ở World Cup, Cannavaro đã phòng ngự, nhưng Italia luôn là số 1 về hậu vệ. Buffon đã giữ gôn, nhưng Italia vẫn luôn là số 1 về thủ môn. Để là số 1 thế giới, Italia đã sinh ra một số 10 ở phía trên hàng thủ. Đấy là điều mới mẻ với bóng đá thế giới! Đúng là cả 1 tập thể góp công để chiến thắng. Phải, cả một tập thể. Nhưng Pirlo đã đứng ở đâu khi những cá nhân được chọn để trao các giải thưởng?


Italia đã VĐTG với chiến công thầm lặng của anh. Milan đã chinh phục cả châu Âu và thế giới với xương sống là anh. Ngày mà Kaka đoạt danh hiệu Cầu thủ hay nhất thế giới, một tháng sau Quả bóng vàng châu Âu 2007, có một sự ngậm ngùi và tiếc nuối đâu đó trong lòng các Milanista: Tại sao những giải thưởng lớn vẫn cứ lẩn tránh Pirlo như một sự bất công lớn lao của số phận? Như ta ăn một bữa cơm ngon trong nhà hàng, nhưng không bao giờ biết người nấu các món ăn ấy là ai mà chỉ được tiếp xúc với những người bồi bàn. Như Ennio Morricone đã làm nhạc cho biết bao bộ phim bất hủ mà không có một Oscar nào trong sự nghiệp. Như bao cầu thủ xuất sắc ở vị trí hậu vệ và tiền vệ chỉ được nhắc đến để làm nền những ngôi sao ghi bàn. Nhưng đó là một sự bất công hợp lí của số phận mà tất cả phải chấp nhận. Và Pirlo vui lòng chấp nhận mà không đòi hỏi. Khi tạo ra những tác phẩm bất hủ để lại cho hậu thế mà hàng trăm năm sau còn nhắc đến với lòng kính trọng và ngưỡng mộ, nghệ sĩ vĩ đại và cũng là ông hoàng của nghệ thuật thời Phục hưng Leonardo da Vinci có đòi hỏi một điều gì đặc biệt lắm đâu.


Pirlo không hề phàn nàn hay chỉ trích gì về sự bất công ấy. Anh không ghi hàng chục bàn thắng và làm bùng nổ mọi cầu trường như những chân sút lớn, không đẹp trai những cầu thủ mà gương mặt đáng làm bìa báo và ảnh quảng cáo, không có một cuộc sống sôi động của một ngôi sao ầm ỹ, không đòi hỏi những phần thưởng lớn mà anh xứng đáng được nhận. Anh vẫn tiếp tục thi đấu, đan những đường bóng như vẽ ở giữa sân, chuyền những đường chuyền quyết định để các đồng đội ở Milan hay ĐT Italia lập công. Pirlo, ông hoàng của nghệ thuật calcio thời Phục hưng, là như thế đấy, không danh hiệu cá nhân, không Quả bóng vàng, không Cầu thủ xuất sắc nhất thế giới, cũng không cần biết anh đứng thứ bao nhiêu trong các cuộc bầu chọn. Vì anh biết, mình luôn có mặt trong tim các tifosi, những người đang gọi anh là “Pirlo da Vinci”…